Nhiều phát minh hiện đại đã thực sự được sử dụng xung quanh cuộc sống chúng ta trong nhiều thập kỷ hoặc thậm chí là nhiều thế kỷ. Chúng ta có xu hướng nghĩ … xem thêm…rằng những phát minh này đều là mới bởi vì các phiên bản trước đó bị thất bại, bị lãng quên, hoặc bị mất.
Chương trình truyền hình thực tế
Trong những năm 1970, nhà làm phim Craig Gilbert đã mời bà nội trợ Pat Loud về việc thực hiện bộ phim ghi lại đời sống hàng ngày của gia đình bà cho một chương trình truyền hình. Lúc đầu, Pat từ chối ý tưởng của Craig vì tham gia trong chương trình có thể tước đi của riêng tư và phá vỡ cuộc sống hàng ngày của họ. Nhưng cuối cùng Pat đã thay đổi suy nghĩ của mình, nhìn thấy chương trình như là một cơ hội để khôi phục lại hạnh phúc cho cuộc sống của cô. Các chương trình thực tế đầu tiên được thực hiện, nó được gọi là An American Family. Đây chính là chương trình truyền hình thực tế đầu tiên trên thế giới.
Bộ phim được phát sóng trên PBS vào năm 1973 và ghi hình lại bảy tháng cuộc sống hằng ngày của Pat Loud, chồng của cô là Bill và năm đứa con với độ tuổi từ 14 đến 20. An American Family đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử truyền hình và thu hút được rất nhiều người dân Mỹ xem lúc bấy giờ. Nổi bật với Pat và Bill ly dị và gây sốc cho khán giả khi đứa con trai lớn Lance thừa nhận anh là người đồng tính.
Kính áp tròng
Ý tưởng
chung cho kính áp tròng lần đầu tiên được hình dung bởi Leonardo da Vinci vào
năm 1508. Da Vinci cho rằng quang học của mắt người có thể được sửa chữa bằng
cách đặt các giác mạc tiếp xúc trực tiếp với nước. Tuy nhiên, nó nó mất khoảng 350
năm trước khi một người nào đó thực sự phát minh ra kính áp tròng đầu tiên.
Theo
một số báo cáo, thợ thổi chai thủy tinh (glass blower) người Đức FA Muller được
công nhận đã sản xuất kính áp tròng đầu tiên vào năm 1887. Tuy nhiên theo trích
dẫn của các báo cáo khác thì bác sĩ nhãn khoa Edouard Kalt và bác sĩ Adolf E.
Fick như là những người sáng chế ra kính áp tròng đầu tiên vào năm 1888. Những
đầu kính áp tròng được làm hoàn toàn từ kính. Họ bao phủ toàn bộ bề mặt
của mắt, bao gồm củng mạc (lòng trắng). Bề mặt
kính nặng nề và
làm giảm cung cấp oxy cho giác mạc, vì vậy họ chỉ có thể được đeo trong một vài
giờ tại một thời điểm.
Chuyên
viên đo mắt William Feinbloom phát minh ra ống kính scleral vào năm 1936. Những
thấu kính này được làm từ sự kết hợp giữa thủy tinh và nhựa, nhẹ hơn so với mô
hình trước đó. Nhưng tất cả đều không phải cho đến năm 1948, bác sĩ nhãn
khoa Kevin Tuohy đã giới thiệu một nguyên mẫu kính áp tròng hiện đại, được làm
hoàn toàn từ nhựa và bao phủ chỉ giác mạc.
Nhà hàng thức ăn nhanh
Thói
quen ăn uống nhanh được cho là phát minh của các thế hệ gần đây. Tuy nhiên, khi
các nhà khoa học đã nghiên cứu cách các hộ gia đình có chức năng tại thành phố
cổ Pompeii, họ phát hiện ra rằng các nhà hàng thức ăn nhanh được sử dụng bởi
những người La Mã cổ đại.
Đa số
người La Mã cổ đại dùng rượu và cơm trưa khá hạn chế, không như giới lãnh
đạo ở Rome. Phần lớn người dân sống tại các khu nhỏ không có không gian
cho khu vực phòng ăn và nhà bếp của mình. Trong khi khai quật thành phố,
các nhà khoa học phát hiện ra tàn tích của các nhà hàng thức ăn nhanh.
Theo
Giáo sư Stephen Dyson, cựu chủ tịch của Viện Khảo cổ học của Mỹ, các nhà hàng
là một sự kết hợp giữa quán ăn
thức ăn nhanh và quán rượu vì
họ phục vụ cả thức ăn và rượu. Khai trương tại đường phố, các nhà hàng có
một lượng lớn người ở giữa phòng để khách đặt thức ăn và đồ uống. Cũng
giống như các món ăn hiện đại, khách hàng có thể ngồi ở một chiếc bàn nhỏ trong
quán ăn hay đơn giản là lấy thức ăn và đi. Những phát hiện trong Pompeii
được cho là mở rộng đến các bộ phận khác của Ý vì thành phố này đã được coi như
là thủ đô Rome.
Truyền thông xã hội
Phương tiện truyền thông xã hội dường như là một trong
những sáng kiến lớn nhất của thế kỷ 21. Trên đó, chúng ta chia sẻ những
suy nghĩ và ý kiến của mình về các vấn đề khác nhau. Tuy nhiên, các cư dân
từ thế kỷ 16 của Bắc Âu đã tạo ra “amicorum
alba” ,
tiếng Latin là “Friend books”.
Khoảng
thập niên 60, các nam thanh niên từ các vùng mà ngày nay là Hà Lan và Rhineland
bắt đầu rời khỏi nhà để tìm kiếm một nền giáo dục rộng khắp châu Âu. Những
người đàn ông đã đến thăm các trường đại học và các học giả. Bất cứ khi
nào họ gặp nhà triết học, nhà khoa học, hoặc sinh viên họ ngưỡng mộ, họ muốn có
ai đó viết bình luận ngắn trong “friend books” của mình để ghi nhớ
cuộc gặp mặt của họ.
Mặc dù phụ nữ của thời đại đó không có nhiều cơ hội đi
lại giống như nam giới, họ vẫn tiếp tục duy trì “friend books” của họ. “Friend
books” của phụ nữ có xu hướng cá nhân hơn với các tin đồn, bí mật và chuyện
cười về sở thích mà họ ghi lên “friend books” . Những cuốn sách này thường
chứa đựng những câu chuyện về các sự kiện đáng nhớ, lời bài hát cho ca khúc mới
và thơ cá nhân. Amicorum
alba chắc
chắn là một cách để thể hiện sự nổi tiếng của một người nào đó.
Phẫu thuật não
Theo
các nhà khảo cổ, phẫu thuật não đã được thực hiện từ thời kỳ “đồ đá mới” muộn. Tin
rằng trở lại khoảng 5.000 năm trước, các kỹ thuật sớm nhất được biết đến là khoan
xương, việc loại bỏ xương từ hộp sọ. Tuy nhiên, một ngôi mộ cổ được phát
hiện ở làng Pháp Ensisheim cho thấy rằng phẫu thuật não được thực hiện ít
nhất 7.000 năm trước đây.
Năm
1997, nhà khảo cổ học làm việc tại Ensisheim phát hiện hài cốt của một người
đàn ông 50 tuổi với hai lỗ hổng trong hộp sọ. Trong hộp sọ có một vết nứt,
mà họ đã chỉ ra nguyên nhân là do phẫu thuật chứ không phải do bạo lực.
Nằm ở
thùy trán, lỗ đầu tiên rộng khoảng 6 cm, trong khi các lỗ khác ở phía trên cùng
của hộp sọ rộng khoảng 3 cm. Điều này cho thấy rằng việc phẫu thuật đã
diễn ra vào những thời điểm khác nhau. Các ca phẫu thuật phải thành công
bởi vì cả hai lỗ lành trước khi ông qua đời. Lỗ nhỏ hoàn toàn bị bao phủ bởi
một lớp mới của xương, và lỗ lớn được bao phủ một phần.
Mặc dù
đó là bằng chứng cổ xưa nhất được biết đến của phẫu thuật não, các nhà khảo cổ
tin rằng có thể phẫu thuật não còn xuất hiện sớm hơn nữa. Thực tế thì việc
khoan xương được thực hiện rất hoàn hảo và người đàn ông đã sống sót.
Điện thoại bàn
Phát
minh ra điện thoại không phải là Alexander Graham Bell mà thực sự đó là
một kỹ sư người Mỹ gốc Ý tên là Antonio
Meucci . Tuy
nhiên, ý tưởng về một chiếc điện thoại thực sự trở lại hơn
1.200 năm trước đây .
Phiên
bản cổ xưa này được phát minh bởi các nền văn minh Chimu, những người sống
trong Rio Moche Valley ở miền bắc Peru. Hiện có tại Bảo tàng quốc gia Smithsonian
của Ấn Độ-Mỹ, điện thoại cổ xưa này được phát hiện bởi Baron Walram V. Von
Schoeler, một quý tộc Phổ, trong khi khai quật ở Peru trong những năm 1930.
Điện thoại của nền văn hóa Chimu gồm hai ống bầu, mỗi cái dài khoảng 9 cm, nối với nhau khoảng 22 mét bằng dây
bện. Ống bàu được trang
bị màng ẩn được thiết kế để tăng cường âm thanh trong quá trình giao
tiếp. Xã hội Chimu là một xã hội phân cấp, trong đó các điện thoại được sử
dụng bởi các tầng lớp cao vì họ không được phép gặp trực tiếp các tầng lớp thấp
hơn.
Ô tô
Một số
người gọi Karl Benz là “cha đẻ của ô tô” mặc dù phát minh này có thể không
phải là do chỉ một người. Nó mất khoảng 100.000
bằng sáng chế để tạo ra những chiếc xe chúng ta có ngày
hôm nay.
Leonardo da Vinci và Isaac Newton thậm chí còn vẽ bản thảo lý thuyết
cho chiếc xe có động cơ. Tuy nhiên, mãi đến thế kỷ thứ 18 mới xuất hiện
chiếc xe tự vận hành đầu tiên cho việc đi lại của con người.
Năm
1769, Nicolas-Joseph Cugnot, một kỹ sư người Pháp và thợ cơ khí, trở thành
người đầu tiên thiết kế và xây dựng một chiếc xe hơi tự vận hành. Được sử
dụng bởi quân đội Pháp, đó là một chiếc xe ba bánh chở pháo binh, chạy bằng
động cơ hơi nước đạt tốc độ tối đa khoảng 3 km mỗi giờ. Xe của Cugnot phải dừng
lại khoảng 15 phút để nạp đủ năng lượng rồi mới di chuyển tiếp.
Năm
1771, vụ tai nạn ô tô đầu tiên xảy ra khi một người đàn ông đã lái
xe đâm vào bức tường đá. Từ đó về sau, mọi thứ đổ dồn xuống hết cho Cugnot.
Ông đã sớm hết tiền để nâng cấp phát minh của mình sau người cung cấp tài chính
cho ông qua đời.
Phong trào phản đối tiêm vắc xin
Vào đầu
những năm 1800, Edward Jenner phát triển vắc xin đậu mùa, nhưng nó bị xã hội phản
đối và chỉ trích. Một số nhà phê bình cho rằng nó mất vệ sinh, trong khi
những người khác phản đối nó vì lý do chính trị, tôn giáo, hoặc khoa học. Từ đó hình thành phong trào phản đối tiêm vắc xin.
Gần một
thế kỷ sau đó, một cuộc
bạo loạn nổ ra ở
các bộ phận khác nhau của Anh sau khi chính phủ Anh thông qua một đạo luật làm
tiêm phòng bắt buộc cho tất cả trẻ em. Wallace trích dẫn thống kê từ báo
cáo của mẫu đăng ký cho biết có 52 người chết mỗi năm do biến chứng từ chủng
ngừa.
Tuy
nhiên, tổ chức vắc xin quốc gia nhanh chóng phản đối với một số thống kê rằng
gần 4.000 cư dân London đã chết mỗi năm vì bệnh đậu mùa trước khi vắc xin được
giới thiệu. Do các cuộc bạo loạn và áp lực chính trị, chính phủ Anh nói
thêm một điều khoản của pháp luật là cho phép cha mẹ có quyền lựa chọn không
tham gia tiêm phòng bắt buộc nếu họ hiểu rõ ý nghĩa hành động của họ.
Trong
năm 1867, “Liên minh phản đối tiêm chủng bắt buộc” được thành lập tại
London. Khoảng một thập kỷ sau đó, “Hiệp hội phản đối tiêm chủng của Mỹ”
được thành lập sau khi một chuyến đi tới Mỹ bởi William Tebb.
Tàu ngầm
Hầu hết
chúng ta nghĩ rằng tàu ngầm được tạo ra vào Thế chiến I. Tuy nhiên, các mô tả khả
thi đầu tiên về một tàu ngầm được rút ra bởi William Bourne, một chủ quán trọ người
Anh vào năm 1580. Bourne giải thích lý do tại sao tàu nổi và gợi ý rằng việc
tăng hoặc giảm độ dày của con tàu liên quan đến trọng lượng của nước chiếm vào khiến
con tàu chìm hoặc nổi.
Tuy
nhiên, Bourne đã không làm bất cứ điều gì nhiều hơn ý tưởng của mình, vì vậy
thế giới đã phải chờ đợi cho đến thập niên 1620 khi Cornelius van Drebbel,
“tòa nhà phát minh” cho James I của Anh, xây dựng tàu ngầm đầu
tiên. Tàu ngầm Drebbel là một thuyền chèo bằng gỗ bọc da láng, có ống
không khí gắn vào phao nổi tiếp xúc với bề mặt oxy. Chiếc tàu ngầm được
đẩy bởi 12 người chèo thuyền vì động cơ vẫn chưa tồn tại.
Chiếc
tàu ngầm quân sự đầu tiên được xây dựng bởi David Bushnell vào năm 1776. Nó làm
bằng gỗ và được điều khiển bởi cánh quạt bằng tay quay. Trong cuộc Cách
mạng Mỹ, nó đã được sử dụng để gắn chất nổ vào thân tàu chiến của Anh. Mặc
dù các tàu ngầm hoạt động tốt nhưng chất nổ thì không.
Trong
những năm 1890, các tàu
ngầm thực sự đầu tiên được
phát triển bởi hai nhà sáng chế phe địch. Được xây dựng bởi John P. Holland
và Simon Lake của Mỹ và Nga tương ứng, những chiếc tàu ngầm sử dụng động cơ hơi
nước và xăng dầu để lướt trên bề mặt và động cơ điện để lặn dưới nước.
Tiếng lóng trong tin nhắn văn bản
Từ lòng
trong tin nhắn văn bản được cho là một phát minh hiện đại. Người dùng điện thoại
ngày nay thông qua tiếng lóng để giúp cho thông điệp của họ ngắn hơn và gõ nhanh
hơn. Trong tiếng Anh là “Text lingo”, hình thức này bị chỉ trích bởi các giáo sư
tiếng Anh và chủ nghĩa thuần túy ngôn ngữ, những người cảm thấy đó là một dấu
hiệu của sự phân rã trí tuệ thời nay. Tuy nhiên, ngôn ngữ giao tiếp viết
tắt đã xuất hiện từ những năm 1890 khi các điện tín được phát minh.
Mặc dù điện báo tạo điều kiện cho mọi người để gửi tin nhắn ở khoảng cách xa nhưng nó vô cùng tốn kém họ phải trả
tiền cho mỗi thư được gửi. Người dùng đã bắt đầu áp dụng tiếng lóng để giảm
thiểu chi phí gửi tin nhắn. Một số ví dụ như: “Wr r ty gg r 9”, ý nghĩa
đầy đủ là “Where are they going for No. 9”; “Is tt exa tr et”, ý nghĩa đầy đủ
là “Is that extra there yet?”.
Hầu hết
mọi người chỉ gửi tin nhắn bằng điện tín khi họ cần truyền thông điệp khẩn cấp,
việc sử dụng từ lóng tạo cơ hội để họ truyền tải được tối đa thông tin với ít
kí tự sử dụng nhất.
Trên đây là top 10 phát minh mới nhưng thực chất nguyên gốc của nó đã xuất hiện từ rất lâu rồi. Vậy bạn ấn tượng với phát minh nào nhất? Hãy để lại bình luận phía dưới để Toplist được biết nhé.